Chuyên mục Bài viết

Khám phá nội dung hấp dẫn và quan điểm đa dạng trên trang Khám phá của chúng tôi. Khám phá những ý tưởng mới và tham gia vào các cuộc trò chuyện có ý nghĩa

Mầm non tương lai
Măng mọc 😍😍

EXCEDO NEWS đã tạo một bài báo mới
1 Năm

Công nghệ số Hạnh phúc | #excedo

Công nghệ số Hạnh phúc

Công nghệ số Hạnh phúc

(Excedo News): "Công Nghệ Số Hạnh Phúc" là tác phẩm của Thạc sỹ Lê Minh Hải, CEO Tập đoàn công nghệ Excedo Group. Cuốn sách đem đến những cảm nhận sâu sắc và đầy mới mẻ về cuộc sống, khát vọng, hạnh phúc trong thế giới số.Excedo News hân hạnh giới thiệu cuốn sách này
Đức Mai Thay đổi ảnh đại diện của anh ấy
1 Năm

image

CẦN MỘT CHÚT...

Cần một chút Yêu thương,
Để tình người ấm lại!
Cần một chút Khờ dại,
Để lòng mình vị tha!
Cần một chút Từ hòa,
Để cùng nhau chung sống!
Cần một chút Quán không,
Để dừng thôi Chấp thủ!
Cần một chút Cần cù,
Để đời không vô vị!
Cần một chút Tế nhị,
Để phẩm hạnh nâng cao!
Cần một chút Thanh cao,
Để thấy đời ý nghĩa!
Cần chút lòng Rộng mở,
Để thấu hiểu nỗi đau!
Cần một chút Tiến tu,
Để đời thêm An Lạc..!

st

image

Huy động vốn cộng đồng - cơ hội cho doanh nghiệp khởi nghiệp
NGUYỄN TUẤN DƯƠNG, VÕ HOÀNG KIM AN Đại học Ngoại thương (Cơ sở II tại TP. HCM)
Huy động vốn cộng đồng (crowdfunding) là khái niệm lần đầu xuất hiện trên thế giới vào những năm 90, nhưng mãi đến giai đoạn 2005-2009, khái niệm này mới được quan tâm một cách rộng rãi. Huy động vốn cộng đồng là một phương thức huy động vốn mới nhằm tăng khả năng thực hiện các dự án khác nhau, thường là các ý tưởng kinh doanh mới, ở giai đoạn đầu triển khai dự án kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, dựa trên nguồn lực từ một nhóm người sẵn sàng tài trợ cho những dự án này, với việc chuyển một khoản tiền nhỏ qua một kênh huy động dựa trên nền tảng internet. Động cơ của các nhà đầu tư có thể khác nhau, như hoạt động thiện nguyện hay vì lợi ích kinh tế như ưu đãi về sản phẩm, hoặc thậm chí là cổ phần, cố phiếu trong tương lai.
Dựa trên khái niệm về crowdfunding và những nghiên cứu trước đây, có thể điểm qua một số đặc điểm của hoạt động này:
- Thứ nhất, hoạt động dựa trên nền tảng liên lạc thông qua ứng dụng của mạng internet;
- Thứ hai, có sự tham gia của nhiều đối tượng đầu tư tiềm năng (gọi chung là cộng đồng);
- Thứ ba, hoạt động này có tác dụng làm giảm rào cản cho các doanh nghiệp khởi nghiệp (start-ups) trong việc tiếp cận các nguồn vốn sẵn có trong cộng đồng;
- Thứ tư, cung cấp những điều kiện giao dịch thuận lợi hơn các kênh huy động vốn hiện có (ngân hàng hay các tổ chức tài chính truyền thống), nhà đầu tư không cần chứng minh hay cung cấp những giấy tờ, thủ tục như theo yêu cầu của ngân hàng,..;
- Thứ năm, có 3 chủ thể cùng tham gia vào hoạt động huy động vốn: nhà đầu tư hay người góp vốn, người ủng hộ (The investors); kênh huy động vốn (The crowdfunding platforms); chủ dự án, người khởi nghiệp (The initiators);
- Thứ sáu, mục đích của việc góp vốn, tài trợ, đầu tư rất đa dạng và khác nhau có thể là mục tiêu đầu tư vì lợi ích tài chính, động cơ thiện nguyện,...;
- Thứ bảy, hoạt động này nhằm mang lại lợi ích cho các bên: người nhận được khoản đầu tư có thể hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh; người đầu tư có thể nhận được lợi ích về mặt kinh tế như sở hữu sản phẩm với mức giá ưu đãi,
 NGUYỄN TUẤN DƯƠNG, VÕ HOÀNG KIM AN Đại học Ngoại thương (Cơ sở II tại TP. HCM)
hay sở hữu sản phẩm đầu tiên khi dự án hoàn thành hoặc sự hài lòng khi hỗ trợ cho một dự án ý nghĩa.
Lợi ích của huy động vốn cộng đồng
Về phía chủ dự án hay người khởi nghiệp (The initiators):
lợiíchđầutiênlàsựhỗtrợvốnđểcóthểhiệnthựchóadự án của mình. Bên cạnh đó, chủ dự án còn có thể nhận được những phản hồi, ý kiến nhận xét, kiểm định về dự án của mình từ cộng đồng; kiểm định mức độ khả thi và sự quan tâm của cộng đồng về dự án mà không tốn thêm chi phí cho các dịch vụ tư vấn, từ đó có thể có những điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Một lợi ích to lớn mà chủ dự án có thể đạt được đó chính là hiệu quả marketing có thể đạt được thông qua các kênh huy động vốn cộng đồng, đặc biệt đối với các sản phẩm hoặc công ty mới.
Một dự án huy động vốn thành công sẽ tăng cao mức độ tin cậy của dự án và sản phẩm, đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn truyền thống trong những giai đoạn sau.
Về phía kênh huy động vốn (Crowdfunding platform):
đầu tiên, lợi ích mà kênh huy động vốn nhận được chính là giá trị đóng góp cho cộng đồng khi tạo ra được một "diễn đàn", nơi người khởi nghiệp và nhà đầu tư có thể "gặp nhau" để hiện thực hóa những ý tưởng, sáng kiến có giá trị cho cộng đồng. Thứ hai, kênh huy động sẽ có một hệ thống, cơ sở dữ liệu của các dự án kinh doanh, các
Các hình thức huy động vốn cộng đồng
Huy động vốn cộng đồng được chia thành bốn nhóm chính là: ủng hộ dự án từ thiện; nhận quà tri ân; góp vốn cho vay và góp vốn cổ phần.
Ủng hộ dự án từ thiện (Donation – based crowdfunding)
Những người góp vốn không nhận lại bất cứ một lợi ích hữu hình nào sau dự án, họ thường được gọi là các mạnh thườngquân hay các nhà hảo tâm. Khi tham gia vào các chiến dịch từ thiện, đa số các mạnh thường quân sẽ không đòi hỏi lợi ích và quyền lợi cho mình. Vai trò của Donation-based crowdfunding là thúc đẩy các dự án mang tính nhân đạo và các dự án nghệ thuật. Theo một nghiên cứu của Schwienbacher và Larralde (201, các dự án không vì lợi nhuận sẽ dễ dàng được chấp thuận và thành công hơn so với các dự án vì lợi nhuận.
Nhận quà tri ân (Reward-based crowdfunding)
Hình thức nhận quà tri ân là một hình thức huy động vốn mà các cá nhân ủng hộ vào dự án với mong muốn nhận được các phần quà mang tính phi lợi nhuận. Những phần quà này tùy thuộc vào số tiền mà các cá nhân đóng góp vào dự án, và được hứa hẹn trước bởi chủ dự án, thường là quyền ưu tiên được sử dụng sản phẩm và dịch vụ, đi kèm với các tặng phẩm như áo thun, album nhạc, vé tham dự các sự kiện văn hóa, hoặc được vinh danh là một trong các nhà đồng sáng lập dự án. Số tiền mà người tài trợ đóng góp càng nhiều, phần quà họ nhận sẽ càng lớn. Hình thức này được thực hiện theo hai mô hình: cố định và linh hoạt. Với mô hình cố định (All-or-nothing), người góp vốn phải đặt ra mục tiêu về số tiền quyên góp được trong một thời hạn nhất định. Sau thời hạn này mà người chủ dự án không thu hút được đủ số vốn đã đặt ra, thì dự án được xem như thất bại và phải bị hủy bỏ, số tiền đã thu được sẽ được gửi trả về cho những người góp vốn. Ngược lại, với mô hình linh hoạt (Take it all), chủ dự án được nhận toàn bộ số tiền mà các nhà đầu tư đã góp cho mình.
Góp vốn cho vay (Peer – to – peer Lending/ P2P Lending):
Theo số liệu thống kê về hoạt động huy động vốn cộng đồng (Crowdfunding Industry) năm 2015 do Crowdsourcing.org thực hiện, hình thức góp vốn cho vay chiếm hơn 70% tổng số vốn góp từ huy động vốn cộng đồng. P2P Lending được định nghĩa là hình thức góp vốn bằng các khoản vay không có đảm bảo. Người góp vốn cho người huy động vốn vay một khoản tiền để thực hiện dự án của mình. Sau khi dự án hoàn thành, người góp vốn sẽ nhận lại được số tiền mình đã cho vay cộng với một khoản tiền lời. Trước khi quyết định cho vay, những người góp vốn sẽ phải đánh giá được khả năng thành công của dự án và những rủi ro tín dụng của người đi vay. Từ đó, họ sẽđặtracácmứclãisuấtchovayhợplý.Dođóđâylàmộthình thức huy động vốn có hiệu quả và có tính linh hoạt, nên được ưa chuộng nhất trong bốn loại hình góp vốn.
Góp cổ phần (Equity crowdfunding)
Những nhà đầu tư vào các dự án này sẽ nhận lại cổ phần và lợi nhuận của công ty bằng với tỷ lệ vốn mà họ đã đóng góp. Những dự án cần được góp vốn cổ phần là những công ty nhỏ trong giai đoạn khởi nghiệp, khả năng tiếp xúc với các nguồn vốn còn nhiều hạn chế. Sau khi huy động đủ số vốn để thành lập công ty, mỗi nhà đầu tư sẽ sở hữu một số cổ phiếu của công ty tương ứng với tỷ lệ vốn góp và nhận lợi nhuận cuối kỳ...

image

Huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần: Kênh huy động vốn cần thiết cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Nguyễn Thị Bảo Ngọc, Văn Lê Thanh Thảo, Lưu Minh Sang Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh

Huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần - ECF (Equity-based Crowdfunding) là một hình thức tài trợ vốn hiệu quả cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST). Tại Việt Nam, hiện chưa có khung pháp lý điều chỉnh ECF dù nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ cho các DNKNST đã được đề ra. Bài viết hướng đến đề xuất công nhận tính pháp lý của ECF tại Việt Nam thông qua việc phân tích, đánh giá các vấn đề về: (i) bản chất, cách thức vận hành, vai trò của hoạt động ECF; (ii) cách tiếp cận trong việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động này cũng như thực tiễn tại một số nước đã công nhận ECF; (iii) bối cảnh huy động vốn của DNKNST và những thách thức trong việc thực hiện hoạt động này tại Việt Nam.
ECF và sự phát triển của thị trường

ECF là một phương thức kêu gọi sự tài trợ vốn từ cộng đồng nhà đầu tư (NĐT) thông qua nền tảng trực tuyến để thực hiện các dự án. Dựa vào quyền lợi mà người góp vốn nhận được có thể chia gọi vốn cộng đồng thành bốn loại: (i) từ thiện (Donate); (ii) theo hình thức cổ phần (ECF); (iii) góp vốn cho vay (Lending); (iv) nhận quà tri ân (Reward-based).

Theo đó, ECF mang bản chất của hoạt động gọi vốn cộng đồng, là một quá trình mà doanh nghiệp huy động vốn (thường là các chủ dự án, DNKNST) kêu gọi và tiếp nhận vốn góp từ một số lượng lớn NĐT thông qua nền tảng trực tuyến. Với ECF, các NĐT cá nhân, NĐT tổ chức quy mô nhỏ có thể sở hữu cổ phần của một công ty hoặc dự án bằng cách đầu tư một khoản tiền nhỏ.

Trong những năm gần đây, hình thức huy động vốn này đang ngày càng trở nên phổ biến với quy mô toàn cầu. Năm 2020, hoạt động ECF toàn cầu huy động được 1,520 tỷ USD [1]. Tại Anh, Mỹ và Canada, thị trường ECF phát triển mạnh sau khi các quy định điều chỉnh hoạt động này được ban hành. Đơn cử, tại Mỹ và Canada, tổng số tiền huy động được thông qua mô hình này đạt 331,5 triệu USD vào năm 2020, con số này tại Anh là 549,3 triệu USD [1]. ECF đã hỗ trợ một số lượng lớn các doanh nghiệp hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh, đồng thời tạo cơ hội cho các NĐT nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp đầu tư vào các doanh nghiệp với khoản tiền phù hợp khả năng tài chính của mình.

Vai trò của ECF

Đối với các DNKNST: Thứ nhất, ECF góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn và cải thiện dòng tiền. Bởi lẽ ECF mang lại các nguồn tiếp cận vốn mới cho các DNKNST, từ đó, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này có nhiều lựa chọn hơn trong việc huy động vốn [2]. Đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu khởi nghiệp hay còn gọi là giai đoạn gieo mầm (seed) và giai đoạn khởi sự (early-stage) cũng chính là lợi ích nổi bật của ECF so với các hình thức huy động vốn khác (chỉ phù hợp với công ty đã qua giai đoạn khởi sự, đã đạt được một số thành tựu trên thị trường)[3]. Ngoài ra, ECF không có bất kỳ giới hạn nào về lĩnh vực hoạt động của DNKNST, trong khi đối với phương thức quỹ đầu tư mạo hiểm, các NĐT mạo hiểm có xu hướng tập trung vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của họ hoặc các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ như internet, phương tiện kỹ thuật số, năng lượng tái tạo… và có tiềm năng tăng trưởng nhanh [3].

Bên cạnh đó, ECF giúp giảm chi phí huy động vốn và tăng khả năng tiếp cận một số lượng rất lớn NĐT thông qua sự trợ giúp của nền tảng trực tuyến. Qua đó, các doanh nghiệp non trẻ vừa huy động được vốn, vừa tận dụng được cơ hội để quảng bá doanh nghiệp và sản phẩm của mình [4]. Ngoài ra, ECF còn mang lại lợi ích phi vật chất có giá trị cho các DNKNST, giúp cho họ hiểu hơn về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng thông qua những phản hồi, ý kiến từ cộng đồng về dự án của mình trên các diễn đàn của nền tảng huy động vốn mà họ tham gia [5].

Đối với NĐT: ECF cung cấp cho các NĐT cơ hội đầu tư mới với số tiền đầu tư nhỏ và tạo điều kiện cho NĐT đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngoài ra, NĐT cũng có thể dựa vào kiến thức, quan điểm và thông tin từ “trí tuệ đám đông” thông qua các diễn đàn trên nền tảng để đánh giá tiềm năng của các công ty mục tiêu trước khi đầu tư [6].

Ở góc độ vĩ mô: với những lợi ích mang lại cho các DNKNST, NĐT và các bên liên quan khác, ECF có khả năng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia trong dài hạn. Việc thúc đẩy hình thức gọi vốn cộng đồng dưới dạng tài chính thay thế này sẽ góp phần tạo nên sự đa dạng cho các ngành công nghiệp của một quốc gia vì các ngành mới nổi sẽ có khả năng phát triển nhờ được tiếp cận nguồn vốn tốt hơn. Khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khởi nghiệp cũng được nâng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Qua đó, ECF có thể thúc đẩy sự đổi mới và tạo nên một nền kinh tế với cơ sở công nghiệp đa dạng, giúp tạo ra nhiều cơ hội việc làm

image

Huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần: Kênh huy động vốn cần thiết cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Nguyễn Thị Bảo Ngọc, Văn Lê Thanh Thảo, Lưu Minh Sang Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh

Huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần - ECF (Equity-based Crowdfunding) là một hình thức tài trợ vốn hiệu quả cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST). Tại Việt Nam, hiện chưa có khung pháp lý điều chỉnh ECF dù nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ cho các DNKNST đã được đề ra. Bài viết hướng đến đề xuất công nhận tính pháp lý của ECF tại Việt Nam thông qua việc phân tích, đánh giá các vấn đề về: (i) bản chất, cách thức vận hành, vai trò của hoạt động ECF; (ii) cách tiếp cận trong việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động này cũng như thực tiễn tại một số nước đã công nhận ECF; (iii) bối cảnh huy động vốn của DNKNST và những thách thức trong việc thực hiện hoạt động này tại Việt Nam.
ECF và sự phát triển của thị trường

ECF là một phương thức kêu gọi sự tài trợ vốn từ cộng đồng nhà đầu tư (NĐT) thông qua nền tảng trực tuyến để thực hiện các dự án. Dựa vào quyền lợi mà người góp vốn nhận được có thể chia gọi vốn cộng đồng thành bốn loại: (i) từ thiện (Donate); (ii) theo hình thức cổ phần (ECF); (iii) góp vốn cho vay (Lending); (iv) nhận quà tri ân (Reward-based).

Theo đó, ECF mang bản chất của hoạt động gọi vốn cộng đồng, là một quá trình mà doanh nghiệp huy động vốn (thường là các chủ dự án, DNKNST) kêu gọi và tiếp nhận vốn góp từ một số lượng lớn NĐT thông qua nền tảng trực tuyến. Với ECF, các NĐT cá nhân, NĐT tổ chức quy mô nhỏ có thể sở hữu cổ phần của một công ty hoặc dự án bằng cách đầu tư một khoản tiền nhỏ.

Trong những năm gần đây, hình thức huy động vốn này đang ngày càng trở nên phổ biến với quy mô toàn cầu. Năm 2020, hoạt động ECF toàn cầu huy động được 1,520 tỷ USD [1]. Tại Anh, Mỹ và Canada, thị trường ECF phát triển mạnh sau khi các quy định điều chỉnh hoạt động này được ban hành. Đơn cử, tại Mỹ và Canada, tổng số tiền huy động được thông qua mô hình này đạt 331,5 triệu USD vào năm 2020, con số này tại Anh là 549,3 triệu USD [1]. ECF đã hỗ trợ một số lượng lớn các doanh nghiệp hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh, đồng thời tạo cơ hội cho các NĐT nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp đầu tư vào các doanh nghiệp với khoản tiền phù hợp khả năng tài chính của mình.

Vai trò của ECF

Đối với các DNKNST: Thứ nhất, ECF góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn và cải thiện dòng tiền. Bởi lẽ ECF mang lại các nguồn tiếp cận vốn mới cho các DNKNST, từ đó, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này có nhiều lựa chọn hơn trong việc huy động vốn [2]. Đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu khởi nghiệp hay còn gọi là giai đoạn gieo mầm (seed) và giai đoạn khởi sự (early-stage) cũng chính là lợi ích nổi bật của ECF so với các hình thức huy động vốn khác (chỉ phù hợp với công ty đã qua giai đoạn khởi sự, đã đạt được một số thành tựu trên thị trường)[3]. Ngoài ra, ECF không có bất kỳ giới hạn nào về lĩnh vực hoạt động của DNKNST, trong khi đối với phương thức quỹ đầu tư mạo hiểm, các NĐT mạo hiểm có xu hướng tập trung vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của họ hoặc các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ như internet, phương tiện kỹ thuật số, năng lượng tái tạo… và có tiềm năng tăng trưởng nhanh [3].

Bên cạnh đó, ECF giúp giảm chi phí huy động vốn và tăng khả năng tiếp cận một số lượng rất lớn NĐT thông qua sự trợ giúp của nền tảng trực tuyến. Qua đó, các doanh nghiệp non trẻ vừa huy động được vốn, vừa tận dụng được cơ hội để quảng bá doanh nghiệp và sản phẩm của mình [4]. Ngoài ra, ECF còn mang lại lợi ích phi vật chất có giá trị cho các DNKNST, giúp cho họ hiểu hơn về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng thông qua những phản hồi, ý kiến từ cộng đồng về dự án của mình trên các diễn đàn của nền tảng huy động vốn mà họ tham gia [5].

Đối với NĐT: ECF cung cấp cho các NĐT cơ hội đầu tư mới với số tiền đầu tư nhỏ và tạo điều kiện cho NĐT đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngoài ra, NĐT cũng có thể dựa vào kiến thức, quan điểm và thông tin từ “trí tuệ đám đông” thông qua các diễn đàn trên nền tảng để đánh giá tiềm năng của các công ty mục tiêu trước khi đầu tư [6].

Ở góc độ vĩ mô: với những lợi ích mang lại cho các DNKNST, NĐT và các bên liên quan khác, ECF có khả năng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia trong dài hạn. Việc thúc đẩy hình thức gọi vốn cộng đồng dưới dạng tài chính thay thế này sẽ góp phần tạo nên sự đa dạng cho các ngành công nghiệp của một quốc gia vì các ngành mới nổi sẽ có khả năng phát triển nhờ được tiếp cận nguồn vốn tốt hơn. Khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khởi nghiệp cũng được nâng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Qua đó, ECF có thể thúc đẩy sự đổi mới và tạo nên một nền kinh tế với cơ sở công nghiệp đa dạng, giúp tạo ra nhiều cơ hội việc làm

image

Huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần: Kênh huy động vốn cần thiết cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Nguyễn Thị Bảo Ngọc, Văn Lê Thanh Thảo, Lưu Minh Sang Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh

Huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần - ECF (Equity-based Crowdfunding) là một hình thức tài trợ vốn hiệu quả cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST). Tại Việt Nam, hiện chưa có khung pháp lý điều chỉnh ECF dù nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ cho các DNKNST đã được đề ra. Bài viết hướng đến đề xuất công nhận tính pháp lý của ECF tại Việt Nam thông qua việc phân tích, đánh giá các vấn đề về: (i) bản chất, cách thức vận hành, vai trò của hoạt động ECF; (ii) cách tiếp cận trong việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động này cũng như thực tiễn tại một số nước đã công nhận ECF; (iii) bối cảnh huy động vốn của DNKNST và những thách thức trong việc thực hiện hoạt động này tại Việt Nam.
ECF và sự phát triển của thị trường

ECF là một phương thức kêu gọi sự tài trợ vốn từ cộng đồng nhà đầu tư (NĐT) thông qua nền tảng trực tuyến để thực hiện các dự án. Dựa vào quyền lợi mà người góp vốn nhận được có thể chia gọi vốn cộng đồng thành bốn loại: (i) từ thiện (Donate); (ii) theo hình thức cổ phần (ECF); (iii) góp vốn cho vay (Lending); (iv) nhận quà tri ân (Reward-based).

Theo đó, ECF mang bản chất của hoạt động gọi vốn cộng đồng, là một quá trình mà doanh nghiệp huy động vốn (thường là các chủ dự án, DNKNST) kêu gọi và tiếp nhận vốn góp từ một số lượng lớn NĐT thông qua nền tảng trực tuyến. Với ECF, các NĐT cá nhân, NĐT tổ chức quy mô nhỏ có thể sở hữu cổ phần của một công ty hoặc dự án bằng cách đầu tư một khoản tiền nhỏ.

Trong những năm gần đây, hình thức huy động vốn này đang ngày càng trở nên phổ biến với quy mô toàn cầu. Năm 2020, hoạt động ECF toàn cầu huy động được 1,520 tỷ USD [1]. Tại Anh, Mỹ và Canada, thị trường ECF phát triển mạnh sau khi các quy định điều chỉnh hoạt động này được ban hành. Đơn cử, tại Mỹ và Canada, tổng số tiền huy động được thông qua mô hình này đạt 331,5 triệu USD vào năm 2020, con số này tại Anh là 549,3 triệu USD [1]. ECF đã hỗ trợ một số lượng lớn các doanh nghiệp hiện thực hóa ý tưởng kinh doanh, đồng thời tạo cơ hội cho các NĐT nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp đầu tư vào các doanh nghiệp với khoản tiền phù hợp khả năng tài chính của mình.

Vai trò của ECF

Đối với các DNKNST: Thứ nhất, ECF góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn và cải thiện dòng tiền. Bởi lẽ ECF mang lại các nguồn tiếp cận vốn mới cho các DNKNST, từ đó, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này có nhiều lựa chọn hơn trong việc huy động vốn [2]. Đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu khởi nghiệp hay còn gọi là giai đoạn gieo mầm (seed) và giai đoạn khởi sự (early-stage) cũng chính là lợi ích nổi bật của ECF so với các hình thức huy động vốn khác (chỉ phù hợp với công ty đã qua giai đoạn khởi sự, đã đạt được một số thành tựu trên thị trường)[3]. Ngoài ra, ECF không có bất kỳ giới hạn nào về lĩnh vực hoạt động của DNKNST, trong khi đối với phương thức quỹ đầu tư mạo hiểm, các NĐT mạo hiểm có xu hướng tập trung vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của họ hoặc các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ như internet, phương tiện kỹ thuật số, năng lượng tái tạo… và có tiềm năng tăng trưởng nhanh [3].

Bên cạnh đó, ECF giúp giảm chi phí huy động vốn và tăng khả năng tiếp cận một số lượng rất lớn NĐT thông qua sự trợ giúp của nền tảng trực tuyến. Qua đó, các doanh nghiệp non trẻ vừa huy động được vốn, vừa tận dụng được cơ hội để quảng bá doanh nghiệp và sản phẩm của mình [4]. Ngoài ra, ECF còn mang lại lợi ích phi vật chất có giá trị cho các DNKNST, giúp cho họ hiểu hơn về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng thông qua những phản hồi, ý kiến từ cộng đồng về dự án của mình trên các diễn đàn của nền tảng huy động vốn mà họ tham gia [5].

Đối với NĐT: ECF cung cấp cho các NĐT cơ hội đầu tư mới với số tiền đầu tư nhỏ và tạo điều kiện cho NĐT đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngoài ra, NĐT cũng có thể dựa vào kiến thức, quan điểm và thông tin từ “trí tuệ đám đông” thông qua các diễn đàn trên nền tảng để đánh giá tiềm năng của các công ty mục tiêu trước khi đầu tư [6].

Ở góc độ vĩ mô: với những lợi ích mang lại cho các DNKNST, NĐT và các bên liên quan khác, ECF có khả năng đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia trong dài hạn. Việc thúc đẩy hình thức gọi vốn cộng đồng dưới dạng tài chính thay thế này sẽ góp phần tạo nên sự đa dạng cho các ngành công nghiệp của một quốc gia vì các ngành mới nổi sẽ có khả năng phát triển nhờ được tiếp cận nguồn vốn tốt hơn. Khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp khởi nghiệp cũng được nâng cao, góp phần tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Qua đó, ECF có thể thúc đẩy sự đổi mới và tạo nên một nền kinh tế với cơ sở công nghiệp đa dạng, giúp tạo ra nhiều cơ hội việc làm

imageimage